Các yếu tố tác động tới GTDN

1. Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh:

Môi trường kinh doanh (MTKD) là yếu tố ảnh hưởng có tính khác khoanh, về cơ bản vượt khỏi tầm kiểm soát của doanh nghiệp Để tồn tại và phát triển được, cũng giống như trong khoa học tự nhiên, doanh nghiệp phải tìm cách thích nghi với môi trường. Môi trường kinh doanh được chia làm 2 loại: 

Môi trường kinh doanh tổng quát: gồm có môi trường kinh tế, môi trường chính trị, môi trường văn hóa – xã hội và môi trường ỹ thuật. 

*Môi trường kinh tế

Doanh nghiệp bao giờ cũng tồn tại trong một bối cảnh kinh tế cụ thể. Bối cảnh kinh tế đó được nhìn nhận thông qua hàng loạt chỉ tiêu vĩ mô như: tốc đọ tăng trường, chỉ số giá cả, tỷ giá ngoại tệ, tỷ suất đầu tư, các chỉ số trên thị trường chứng khoán… Mặc dù môi trường kinh tế mang tính chất như yếu tốc khách quan nhưng ảnh hưởng của chúng tới GTDN lại là sự tác động trực tiếp.

Mỗi sự thay đổi nhỏ của yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về doanh nghiệp: nèn kinh tế luôn tăng trưởng với tốc độ cao, phản ánh nhu cầu đàu tư và tiêu dùng ngày càng lớn. Chỉ số giá chứng khoán phản ảnh đúng quan hệ cũng cầu, đồng tiên ổn định, tỷ giá và lãi suất có tính kích thích đàu tư sẽ trở thành cơ hội tốt cho doanh nghiệp mở rộng quy mô SXKD. Ngược lại, sự suy thoái kinh tế, giá chứng khoán ảo, lạm phát phi mã… là biểu hiện môi trường tồn tại của doanh nghiệp đang bị lung lay tận gốc. Mọi sư đánh giá về doanh nghiệp, trong đó có GTDN sẽ bị đảo lộn hoàn toàn.

* Môi trường chính trị

SXKD chỉ có thể ổn định và phát triển trong môi trường có sự ổn định về chính trị ở mức độ nhất định. Chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, mafia và những yếu tố trật tự an toàn xã hội khác bao giờ cũng tác động xấu tới mọi mặt đời sống xã hội chứ không riêng gì SXKD.

Các yếu tố của môi trường chính trị có sự gắn bó chặt chẽ, tác động trực tiếp đén SXKD bao gồm:

-     Tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng  và chi tiết của hệ thống luật pháp.

-     Quan điểm tư tưởng của Nhà nước đối với SXKD thông qua hệ thống các văn bản pháp quy như: Quan điểm về sản xuất, đàu tư, tiêu dung… thể hiện trong luật thuế, luật cạnh tranh, luật sở hữu trí tuệ…

-     Năng lực hành pháp của chính phủ và ý thức chấp hành pháp luật của công dân và các tổ chức. Pháp luật đã ban hành nhưng không hiện thực, tệ nạn buôn lậu, trốn thuế, hàng giả… là biểu hiện một môi trường chính trị gây bất lợi cho sản xuất.

Có thể thấy rằng, cũng như môi trường kinh tế, môi trường chính trị có vai trò như những điều kiện thiết yếu, tối thiểu để doanh nghiệp có thể hoạt động, và do vậy, đánh giá về doanh nghiệp bao giờ cũng phải nhìn nhận trước hết từ các yếu tố này.

* Môi trường văn hóa – xã hội.

-     Môi trường văn hóa được đặc trưng bởi những quan niệm, hệ tư tưởng của cộng đồng về lối sống, đạo đức…; quan niệm về “chân, thiện, mỹ”, về nhân cách, văn minh xã hội; được tể hiện trong tập quán sinh hoạt và tiêu dùng.

-     Môi tường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi, mật độ, sự gia tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người và hàng loạt các vấn đè mới nảy sinh như ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt…

SXKD có mục tiêu xuyên suốt là lợi nhuận cũng không thể tách rời môi trường văn hóa –xã hội. Trên phương diện xã hội, doanh nghiệp ra đời là để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng. Vì thế đánh giá về doanh nghiệp không thể bỏ qua những yếu tố, đòi hỏi của môi trường văn hóa – xã hội trong hiện tại mà còn phải dự báo được sự ảnh hưởng của yếu tố này đến SXKD của doanh nghiệp trong tương lai.

* Môi trường khoa học – công nghệ

Sự tác động của KHCN đang làm thay đổi căn bản các điều kiện về quy trình và phương thức tổ chức SXKD trong các doanh nghiệp. Sản phẩm sản xuất ra ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong đời sống vật chất và tinh thần. Hàm lượng tri thức có khuynh hướng chiếm ưu thế tuyệt đối trong giá bán sản phẩm.

Trên bình diện xã hội, đó là những bước tiến nhảy vọt của nền văn minh nhân loại. Song ở góc độ doanh nghiệp, đó không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức với sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Sự thiếu nhạy bén trong việc chiếm lĩnh những thành tựu khoa học mới nhất có thể là nguyên nhân được doanh nghiệp mau chóng đến chỗ phá sản. Chính vì vậy khi đánh giá về doanh nghiệp, cần phải chỉ ra mức độ tác đọng của môi tường này đến SXKD vfa khả năng thích ứng của doanh nghiệp tước những bước phát triên mới của KHCN.

 
Môi trường đặc thù:

So với môi trường tổng quát, môi trường đặc thù bao gồm các yếu tố tác động đến doanh nghiệp mang tính trực tiếp và rõ ràng hơn. Hơn nữa với các yếu tố này, doanh nghiệp còn có thể kiểm soát chúng ở một mức độ nhất định. Thuộc môi trường đặc thù có yếu tố về khách hàng, nhà cung cấp, hãng cạnh tranh và các cơ quan nhà nước.

* Quan hệ doanh nghiệp – khách hàng:

Thị trường là yếu tố quyết định đến đầu ra của sản phẩm của doanh nghiệp. Khác hàng của doanh nghiệp có thể là các cá nhân, doanh nghiệp khác hoặc Nhà nước. Họ có thể là khách hàng hiện tại hoặc khách hàng trong tương lai.

Thông thường khác hàng sẽ chi phối hoạt động của doanh nghiệp, nhưng cũng có những trường hợp khách hàng lại bị lệ thuộc vào khả năng cung cấp của doanh nghiệp. Do vậy muốn đánh giá đúng khả năng phát triển, mở rộng SXKD của doanh nghiệp, cần xác định tính chất, mức độ bền vững và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với khác hàng. Uy tín tốt của doanh nghiệp với khác hàng có được không phải một sớm một chiều, do nhiều yếu tố hinh thành. Để đánh giá chúng người ta thường kể đến: Sự trung thành và thái độ của khachs hàng, số lượng và chất lượng khách hàng, tiensg tăm và các mối quan hệ tốt, khả năng phát triển các mối quan hệ đó. Tuy nhiên, căn cứ thuyết phục nhất cho sự đánh giá là thị phần hiện tại và tương lai, doanh số bán ra và tốc đọ phát triển các chỉ tiêu đó qua các thời kỳ kinh doanh khác nhau của doanh nghiệp

* Quan hệ doanh nghiệp – nhà cung cấp:

Doanh nghiệp thường phải trông đợi sự cung cấp từ phía bên ngoài các loại hàng hóa, nguyên vật liệu, dịch vụ điện, nước, thông tin, tư vấn… Tính ổn định của nguồn cung cấp có ý nghĩa quan trọng đảm bảo cho sản xuất và tiêu thụ được thực hiện theo yêu cầu mà doanh nghiệp định ra.

Trong quan hệ với nhà cung cấp, doanh nghiệp đóng vai trò “thượng đế”. Tuy nhiên có thể do tính chất khan hiếm vật tư đầu vào, số lượng nhà cung cấp không đủ lớn hay sự cấu kết giữ họ với nhau, do mua với số lượng nhỏ… trong nhiều trường hợp doanh nghiệp cũng có thể bị sai khiến. Từ đó, đánh giá khả năng đáp ứng các yếu tố đầu vào đảm bảo cho SXKD có thể ổn định phải xem xét đến: sự phong phú của nguồn cung cấp, số lượng, chủng loại nguyên liệu có thể thay thế cho nhau, khả năng đáp ứng lâu dài của doanh nghiệp rồi mới kể đến tính kịp thời, chất lượng và giá cả sản phẩm.

* Các hãng cạnh tranh

Được sự ủng hộ của Nhà nước trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước ngày càng trở nên quyết liệt hơn. Sự quyết liệt trong môi trường cạnh tranh được coi là mối nguy cơ trực tiếp đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Do đó, đánh giá năng lực cạnh tranh, ngoài việc xem xét trên 3 tiêu chuẩn: Giá cả, chất lượng sản phẩm và dịch vụ hậu mãi còn phải xác định được số lượng doanh nghiệp cạnh tranh, năng lực thực tế và thế mạnh của họ. Đồng thời phải chỉ ra những yếu tố và mầm mống có thể làm xuất hiện các đối thủ mới, như vậy mới có thể kết luận đúng đắn về vị thế và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.

* Các cơ quan Nhà nước

Trong cơ chế thị trường, về cơ bản doanh nghiệp được quyền chủ động hoàn toàn đối với SXKD. Tuy nhiên, sự hoạt động của doanh nghiệp luôn phải được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước như: Thuế, thanh tra, công đoàn… Các tổ chức này có bổn phận kiểm tra, giám sát, đảm bảo cho sự hoạt động của doanh nghiệp không vượt ra khỏi những quy ước xã hội thể hiện trong các luật.

 

Doanh nghiệp có quan hệ tốt với các tổ chức Nhà nước thường là những doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ của mình với xã hội: nộp thuế đầy đủ, chấp hành đúng luật lao động, quan tâm đến vấn đề môi trường… Đó cũng thường là biểu hiện của những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính vững mạnh, lợi nhuận thu được không phải bằng các con đường trái phép… Vì vậy, xác định sự tác động của yếu tố môi trường đặc thù đến SXKD của doanh nghiệp còn cần phải xem xét chất lượng và thực trạng mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các cơ quan Nhà nước trong những khoảng thời gian nhất định.

2. Các yếu tố nội tại doanh nghiệp:

Hiện trạng tài sản trong doanh nghiệp

Khi xác định GTDN, bao giờ người ta cũng quan tâm ngày đến hiện trạng tài sản của doanh nghiệp vì 2 lý do chủ yếu:

-    Tài sản của một doanh nghiệp là biểu hiện yếu tố vật chất cần thiết, tối thiểu đối với quá trính SXKD. Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ thuật và tính đồng bộ của các loại tài sản là yếu tố quyết định đến số lượng và chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Tức là khả năng cạnh tranh và thu lợi nhuận của doanh nghiệp phụ thuộc một cách trực tiếp và có tính chất quyết định vào các yếu tố này.

-     Giá trị các tài sản của doanh nghiệp là một căn cứ đảm bảo rõ ràng nhất về GTDN, vì thay cho việc dự báo các khoản thu nhập tiềm năng, người sở hữu có thể bán chúng bất cứ lúc nào để nhận về một khoản thu nhập từ những tài sản đó.

Từ 2 lý do này mà thực tế, khi vận dụng các phương pháp người ta thường đánh giá cao những phương pháp có liên quan trực tiếp đến việc xác định giá trị tài sản DN.


Vị trí kinh doanh:

Vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với SXKD. Vị trí kinh doanh được dặc trưng bởi các yếu tố như địa điểm, diện tích của doanh nghiệp và các chi nhánh, yếu tố địa hình, thời tiết…

Một doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp thương mại – dịch vụ, được đặt gần các đô thị, nơi đông dân cư, trung tâm buôn bán lớn và đầu mối giao thông quan trọng có thể đem lại rất nhiều lợi thế cho doanh nghiệp. Với vị trí thuận lợi, doanh nghiệp có thể giảm được nhiều khoản mục chi phí chủ yếu như: vận chuyển, bảo quản, lưu kho, giao dịch… đồng thời goanh nghiệp sẽ có những thuận lợi lớn để tiếp cận và nắm bắt nhanh chống nhu cầu, thị hiếu của thị tường, thực hiện tốt các dịch vụ hậu mãi. Tuy nhiên với vị trí đó, cũng có thể kéo theo sự gia tăng của những khoản chi phí như thuê văn phòng giao dịch, lao động, các yêu cầu khắt khe hơn của Nhà nước như xử lý ô nhiễm…

Những thuận lợi và bất lợi cơ bản của yếu tố vị trí đối với SXKD là lý do chủ yếu giải thích sự chênh lệch về giá cả đất đai, giá thuê nhà giữa các khu vực với nhau. Và cũng chính vì thế, khi nói về yếu tố lợi thế thương mại người ta thường trước hết đề cập đến yếu tố vị trí. Trong thực tế, do sự khác nhau vè vị trí kinh doanh mà có sự chênh lệch rất lớn khi đánh giá về giá trị doanh nghiệp. Vì vậy, vị trí kinh doanh cần được coi là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu khi đưa ra phân tích, đánh giá GTDN.


Uy tín kinh doanh:

Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của doanh nghiệp, nhưng nó lại được hình thành bởi nhiều yếu tố khác nhau bên trong doanh nghiệp như: chất lượng sản phẩm, trình độ và năng lực QTKD, thái độ phục vụ của nhân viên…

Có thể thấy rằng, khi sản phẩm của doanh nghiệp đã được đánh giá cao trong con mắt của khách hàng, thì uy tín trở thành một tài sản thực sự, có giá trị và được gọi là giá trị thương hiệu. Trong nền kinh tế thị trường, người ta có thể mua bán thương hiệu và nhiều khi thương hiệu được đánh giá rất cao. Chính vì thế, uy tín của doanh nghiệp được đông đảo các nhà kinh tế thừa nhận là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên GTDN.

Trình độ kỹ thuật và tay nghề lao động:

Chất lượng sản phẩm doanh nghiệp một mặt phụ thuộc vào trình độ công nghệ của máy móc thiết bị, mặt khác phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao động.

Trình độ kỹ thuật và sự lành nghề của người lao động không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, mà còn có thể làm giảm chi phí do việc sử dụng hợp lý nguyên nhiên vật liệu… trong quá trình sản xuất, giảm chi phí đào tạo – bồi dưỡng, từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho doanh nghiệp.

Đánh giá về trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao đọng không chỉ xem ở bằng cấp, bậc thợ và số lượng lao động đáp ứng tiêu chuẩn mà quan trọng hơn là hàm lượng tri thức trong mỗi sản phẩm của doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Như vậy, khi đánh giá khả năng tồn tại và phát triển, tạo ra lợi nhuận, cần xem xét trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao động, coi chúng như một yếu tố nội tại quyết định GTDN.

Năng lực QTKD:

Trong điều kiện ngày nay, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài phải có một bộ máy quản lý SXKD đủ mạnh để có khả năng sử dụng tốt nhất các nguồn lực, tận dụng mọi tiềm năng và cơ hội nảy sinh, ứng phó linh hoạt với những biến động của môi trường. Vì lsy do đó, năng lực QTKD luôn được nhắc tới như một yếu tố đặc biệt quan trọng tác động tới GTDN.

QTKD là một khái niệm rộng, được đánh giá theo các nội dung cơ bản của hoạt động quản trị như: khả năng hoạch định chiến lược – chiến thuật, trình độ tổ chức bộ máy quản lý, năng lực quản trị yếu tố đầu vào và đầu ra, quản trị nguồn nhân lực…

Năng lực QTKD là một yếu tố định tính hơn là định lượng, vì vậy khi đánh giá cần xem xét chúng dưới sự tác động của môi trường. Ngoài ra, năng lực QTKD tổng hợp còn được thể hiện thông qua hệ thống các chỉ tiêu TCDN. Do đó thực hiện phân tích tình hình tài chính những năm gần đây cũng có thể cho phép rút ra những kết luận về năng lực quản trị và tác động đến GTDN.

 

Tóm lại:

GTDN chịu sự tác động của nhiều yếu tố, bao gồm các yếu tố bên trong và bên ngoài. Các yếu tố đã nêu là cơ sở để xây dựng và lựa chọn những tiêu chí cho việc đánh giá, căn cứ để các bên thảo luận, xác định phạm vi và đánh giá có hệ thống từng điểm mạnh và yếu của doanh nghiệp.

Với các yếu tố định tính, để ước lượng mức độ tác động và chuyển đổi thành số liệu, thẩm định viên sử dụng phương pháp chuyên gia, xếp hạng cho điểm. Đó là một trong những lý do chính giải thích sự chênh lệch rất lớn về kết quả đánh giá giữa các chuyên gia với nhau, giải thích sự phực tạp trong việc xác định GTDN.